ĐAN SÂM- THẦN DƯỢC TRỊ “HUYẾT BỆNH”

Cổ nhân có câu ” Nhất vị Đan Sâm ẩm, công đồng Tứ Vật Thang” nghĩa là chỉ riêng 1 vị thuốc Đan Sâm đã có tác dụng ngang với bài thuốc quý Tứ Vật Thang, bài thuốc bổ huyết điều huyết kinh điển của Y học cổ truyền. Đan Sâm mệnh danh là “Huyết bệnh yếu dược”, thứ dược quan trọng trị các bệnh liên quan đến huyết.

Vị thuốc Đan sâm theo Y học cổ truyền

Theo Y học cổ truyền, Đan sâm có vị đắng (khổ) sắc đỏ (đỏ thuộc tâm hỏa), nhập tâm và tâm bào lạc. Đan sâm có tác dụng phá túc huyết (huyết lưu ứ lại), sinh ra huyết mới (ứ khử nhiên hậu tân sinh), dưỡng huyết an thai, trụy tử thai (khứ ứ), điều kinh mạch (phong hàn thấp nhiệt, tích tụ lâu ngày làm tổn thương khí huyết, kinh mạch không điều hòa, gây huyết hư, huyết ứ, khí trệ, đàm trở… kinh mạch điều hòa thì bệnh tự tán). Chủ trị các chứng hư lao, cốt tiết thống (đau nhức xương khớp), phong tý bất tùy (chân tay mệt mỏi, ngại vận động, không theo chủ ý), trường minh phúc thống (đau bụng, sôi bụng)…

Đan sâm dưỡng thần định chí, thông lợi huyết mạch; giúp dưỡng huyết, điều huyết, quy thủ thiếu âm, thủ quyết âm kinh giúp công năng của tâm, tâm bào được điều hòa. Vì vậy, Đan sâm là dược vị không thể thiếu trong các phương thuốc trị các chứng bệnh về tâm, về huyết.

Đan sâm được dùng độc vị  hoặc là thành phần trong những bài thuốc chữa các bệnh về tâm, huyết mạch…với liều dùng từ 6 – 12g, sắc uống hoặc hoàn tán. Cần lưu ý, Đan sâm úy diêm thủy, kỵ giấm, phản Lê Lô.

Vị thuốc Đan sâm được nghiên cứu trong Y học hiện đại

Qua nghiên cứu cho thấy, hiệu quả của dịch chiết Đan sâm lên hệ tim mạch (in vitro, in vivo) bao gồm ức chế ngưng tập tiểu cầu, tăng lưu lượng máu, cải thiện chức năng tâm trương (thất trái) ở bệnh nhân tăng huyết áp. Đan sâm cũng làm giảm sự sản xuất fibrin nên có tác dụng giảm sự hình thành cục máu đông và làm tan huyết khối.

Thực nghiệm trên chuột, Đan sâm có tác dụng tăng tỉ lệ sống, kéo dài thời gian sống trong điều kiện thiếu oxy, giúp cải thiện tuần hoàn ngoại vi, chống đông máu, hạ huyết áp, giảm Triglycerid máu, giảm thoái hóa mỡ trên giải phẫu bệnh gan. Ngoài ra, Đan Sâm còn có tác dụng kháng khuẩn, an thần, ức chế sự phát triển của tế bào ung thư trên thực nghiệm.

Theo nghiên cứu lâm sàng của một nhóm nghiên cứu từ Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy nhóm bệnh nhân sử dụng Đan Sâm giảm đau thắt ngực, chức năng tim được cải thiện tốt hơn ở 93,4% số bệnh nhân so với 73,8% ở nhóm bệnh nhân dùng Isosorbidedinitrat.

Acid Salvianolic B (SAB) trong Đan Sâm được chứng minh có tác dụng ức chế chức năng tiểu cầu, cụ thể là ức chế sự kết dính tiểu cầu với Collagen bất động, bằng cách can thiệp với thụ thể Collagen α2β1. Trên động vật thực nghiệm SAB có tác dụng bảo vệ não khỏi tổn thương thiếu máu. Ngoài ra, SAB còn  có một số tác dụng khác trên tim mạch như kích thích các tế bào nội mô sản xuất NO và ức chế sự tạo thành Angiotensin- II, giúp điều hòa huyết áp và chống nhồi máu cơ tim. Chất này cũng đã được nghiên cứu về tác dụng làm giảm Glucose máu, tăng độ nhạy với Insulin, giảm holesterol toàn phần, giảm LDL-cho và tăng HDL-cho trên chuột bị gây đái tháo đường type 2 thực nghiệm. SAB là chất oxy hóa mạnh giúp loại bỏ các gốc tự do có hại, có tác dụng chống viêm và bảo vệ tế bào.

Tại Trung Quốc, Đan sâm còn được dùng với dạng dịch chiết truyền tĩnh mạch. Phương pháp này, được áp dụng trong nghiên cứu lâm sàng trên những bệnh nhân viêm gan cấp, viêm gan mạn, suy thận, bệnh mạch vành, bệnh lý mạch máu não, xơ cứng bì, ung thư lympho… đều cho những kết quả điều trị tốt.

Như vậy, qua các nghiên cứu có thể thấy Đan Sâm có tác dụng trong:

  • Các bệnh lý tim mạch
  • Chống tăng Lipid máu
  • Chống đái tháo đường
  • Chống tăng huyết áp

Các tác dụng khác:

  • Chống bệnh Paskinson;
  • Chống thiếu máu não;
  • Chống viêm;
  • Chống oxy hoá;
  • Chống huyết khối;
  • Chống lại bệnh Alzheimer;
  • Giảm đau kiểu thần kinh.

Trong y học hiện đại, người ta có thể dùng Đan sâm dưới dạng cao chiết toàn phần hoặc dịch chiết phân đoạn, có thể dùng để điều trị đơn độc hoặc dùng làm bán thành phẩm kết hợp với những hoạt chất từ dược liệu khác để tạo ra những chế phẩm, có tác dụng chữa bệnh hiệu quả cao có nguồn gốc tự nhiên. Tuy nhiên, đối với những chế phẩm cụ thể, cần phải được nghiên cứu về tính an toàn (độc tính cấp, độc tính bán trường diễn) và hiệu quả để có được chỉ định và liều dùng phù hợp nhất.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *